Tiến Sĩ Toán Học Harvard Ở Mỹ Pdf Miễn Phí
Đại học Harvard – ngôi trường đại học Mỹ danh giá bậc nhất thế giới. Mỗi năm chỉ có khoảng 1% học sinh tren toàn thế giới trúng tuyển vào ngôi trường này. Hiện nay, Harvard cũng đang tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho học sinh trên toàn thế giới có thể tiếp cận kiến thức một cách dễ dàng nhất. Đó là lý do tại sao đại học Harvard tạo ra rất nhiều khóa học online miễn phí trên nhiều lĩnh vực. Cùng ISA điểm qua 15 khóa học online miễn phí từ nhiều lĩnh vực khác nhau của Đại Học Harvard nhé
[Online] Khóa Học Miễn Phí Từ Đại Học Harvard Về Kỹ Năng Làm Việc Từ Xa
Khóa học giao tiếp từ xa miễn phí
[Online] Khóa Học Về Luật Hợp Đồng Từ Trường Harvard
hy vọng với bài viết này sẽ giúp các bạn tiếp cận gần hơn với môi trường học tập chuyên nghiệp của Đại học Harvard. Chúc các bạn thành công.
Xem thêm cơ hội tìm việc làm mới tại CareerViet :
Quá trình học này mang lại cho mỗi cá nhân rất nhiều lợi ích như: cung cấp một lượng kiến thức chuyên môn lớn, phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành một cách hiện đại và bài bản về quản lý sản xuất, quản lý công nghiệp, quản lý cửa hàng thời trang,...
Nhờ thế, sẽ có thêm nhiều nhà nghiên cứu có khả năng thực hiện các nghiên cứu mới, sáng tạo với mục tiêu đóng góp cho sự gia tăng của tri thức nhân loại trong quá trình giải quyết các bài toán của thực tiễn và khoa học. Bên cạnh kiến thức chuyên môn, các du học sinh còn học được rất nhiều từ văn hóa và cuộc sống hằng ngày trên đất khách.
Yêu cầu tiên quyết để được chấp nhận vào các chương trình PhD tại Mỹ là TOEFL và GRE/ GMAT. Điểm càng cao càng có nhiều lợi thế, càng có nhiều cơ hội xin các học bổng dạng trợ lý nghiên cứu hay giảng dạy (TA, RA - loại học bổng phổ biến cho nghiên cứu sinh). Bằng Master (thạc sĩ) không bắt buộc ở một số trường, tuy nhiên phổ biến các trường yêu cầu phải có Master trước khi học PhD nếu không phải bổ sung một số môn học. Điểm TOEFL dù cao (trên 600, thậm chí 650) thì cũng chỉ là điểm khởi đầu. Một chương trình PhD của Mỹ thường bao gồm hai giai đoạn chính: 2-3 năm đầu học các chuyên đề (course work) và 2-4 năm sau làm luận án. Khác với một số trường của hệ thống Anh và Úc, khi đăng ký học PhD sinh viên phải có đề cương nghiên cứu, hệ thống của Mỹ không đặt nặng yêu cầu này. Quan điểm của họ cho rằng dù đã có bằng Master thì về mặt nghiên cứu sinh viên vẫn hoàn toàn mới mẻ, và do vậy cần ít nhất hai năm để đọc, nghiên cứu về chuyên ngành của mình trước khi có thể tự mình tiến hành nghiên cứu độc lập. Giai đoạn học các chuyên đề hết sức vất vả vì yêu cầu rất cao và phải làm việc hết sức độc lập, đôi khi khá cô đơn. Khác với học đại học hay master mà học nhóm là phổ biến, học tiến sĩ chủ yếu tự mình nghiên cứu lĩnh vực mà mình quan tâm. Giai đoạn này là khoảng thời gian hết sức quan trọng, cung cấp rất nhiều kiến thức và kỹ năng. Tạo cơ hội cho du học sinh tiếp cận với rất nhiều thông tin kiến thức, trường phái khác nhau trong chuyên ngành, từ đó xác định và lựa chọn chuyên nghành mình thích và muốn nghiên cứu. Trong mỗi chuyên đề (seminar), mỗi sinh viên phải đọc, nhận xét, phản biện hàng trăm bài báo chuyên môn, tranh luận trên lớp, thực hiện các nghiên cứu độc lập và viết các bài báo (academic papers) - mà yêu cầu chất lượng phải có thể được chấp nhận ở các hội thảo hay tạp chí khoa học, vì đây cũng chính là phương pháp đánh giá một nhà nghiên cứu của Mỹ và thế giới. Sang giai đoạn hai, sinh viên phải dự một kỳ thi nói nôm na là thi hết những gì đã học (comprehensive examination). Mỗi kỳ thi gồm hai phần, viết và vấn đáp. Chỉ khi đã đạt ở kỳ thi viết mới chuyển sang kỳ thi vấn đáp. Tùy từng trường, nhưng nói chung kỳ thi này luôn được tổ chức nghiêm túc và yêu cầu cao để đảm bảo sinh viên có đủ kiến thức bước sang giai đoạn làm luận văn. Chẳng hạn ở chương trình tôi học thì thi rất vất vả, gồm đến ba phần. Phần một là thi các kiến thức về thương mại quốc tế gồm ba bài thi trong ba ngày, mỗi bài ba giờ. Xong phần thi này thì đến phần thi chuyên ngành hẹp gồm hai bài thi trong hai ngày, mỗi bài 3-4 giờ. Sau khi có kết quả đạt ở hai phần thi này thì chuyển qua thi vấn đáp với hội đồng là tất cả giáo sư trong bộ môn chừng hơn một tiếng. Sinh viên thi rớt có thể thi lại một lần nữa, nếu vẫn không vượt qua thì đương nhiên bị loại khỏi chương trình. Tiếng Anh không chỉ cần thiết để tiếp cận các nguồn tài liệu khoa học, mà còn là phương tiện để trao đổi kiến thức thông qua viết báo khoa học và tham dự các hội thảo khoa học quốc tế. Điểm thứ hai là cần cải thiện chất lượng và tăng trọng số cho các chuyên đề đang giảng dạy trong các chương trình PhD trong nước, vì đây là giai đoạn chuẩn bị hết sức quan trọng cho quá trình nghiên cứu sau này. Điểm cuối cùng là để bậc học này đúng nghĩa là bậc học cao nhất thì cần đầu tư nhiều cho nó. Không thể cứ trách thầy cô và nghiên cứu sinh không làm tốt nhiệm vụ khi họ không có được các trang thiết bị tối thiểu như Internet, thư viện điện tử, phòng thí nghiệm để thực hiện các nghiên cứu của mình. Vượt qua kỳ thi này, sinh viên có quyền chọn hội đồng hướng dẫn gồm tối thiểu ba giáo sư, trong đó có một giáo sư không thuộc bộ môn mà sinh viên học. Giai đoạn này là giai đoạn nghiên cứu độc lập, sinh viên tự lên kế hoạch và nhận sự hướng dẫn của các giáo sư. Ở giai đoạn làm luận văn, sinh viên có thể bắt đầu tìm việc làm, thường là các vị trí trong trường đại học hay viện nghiên cứu. Quá trình tuyển dụng cũng rất khoa học. Các trường và viện thường tổ chức phỏng vấn tại các hội thảo khoa học của từng chuyên ngành. Sinh viên chưa hoặc mới tốt nghiệp sẽ vừa tham dự hội thảo vừa tham dự phỏng vấn tìm việc. Các trường sau đó sẽ chọn một số ít ứng viên phù hợp và mời đến trường để tham quan (gọi là job talk). Các trường sẽ lo chi phí đi lại, ăn ở (thường thì 2-3 ngày). Trong những ngày này ứng viên sẽ có những buổi trình bày cho hội đồng tuyển dụng và sinh viên, họ cũng sẽ tiếp xúc và được phỏng vấn bởi hầu hết nhân sự trong trường như trưởng khoa, phó khoa, giáo sư các bộ môn, sinh viên (PhD hay Master)… Bên cạnh danh tiếng của trường và chương trình mà ứng viên theo học, thành tích khoa học thể hiện qua những bài báo đang thực hiện hay đã công bố là cơ sở chính để các trường chọn lựa. Điểm số trong quá trình học PhD không phải là vấn đề quan trọng, miễn là vượt qua 3,2 hoặc 3,5/4 tùy theo yêu cầu của mỗi trường. Các trường của Mỹ thường không giữ sinh viên lại làm việc sau khi tốt nghiệp mà nhận những PhD từ các trường khác. Đây cũng là một cách tiếp cận khá hay để thay đổi và làm mới không khí học thuật của các trường.
Về đào tạo PhD tại Việt Nam Trình độ ngoại ngữ - đặc biệt là tiếng Anh - cần phải được đặc biệt đầu tư khi bước vào các chương trình PhD. Nếu không có ngoại ngữ thì gần như không thể thực hiện được các nghiên cứu mới vì không biết được bên ngoài đã làm gì, còn thiếu gì và mình nên làm gì.
Chỉ với một cú pháp đơn giản trên các trang công cụ tìm kiếm: chuyên ngành + “Graduate” + “Assistantship”, bạn có thể dễ dàng tìm thấy hàng trăm hỗ trợ tài chính toàn phần cho chương trình sau đại học (thạc sĩ và tiến sĩ) tại Mỹ.
Nhiều bạn trẻ tại Việt Nam thường nghĩ việc du học tại Mỹ rất khó, đạt học bổng hay nhận hỗ trợ tài chính lại còn khó hơn. Ngay cả nhiều người quen hay họ hàng của tôi vẫn thường bảo du học Mỹ không hề dễ dàng, người Mỹ còn khó lòng đạt được học bổng bậc đại học (ĐH), đừng nói gì đến bậc cao học như thạc sĩ và tiến sĩ.
Tuy nhiên, tôi đã chứng minh điều ngược lại: tôi đạt được hỗ trợ tài chính 100% bậc thạc sĩ khoa học ngành truyền thông đại chúng tại ĐH Bang Kansas (Kansas State University) và tiến sĩ ngành truyền thông và chính sách công tại ĐH Bang Louisiana (Louisiana State University). Nhìn chung, hầu hết ĐH tại Mỹ cung cấp các gói hỗ trợ tài chính cho những chương trình bậc cao học và đa dạng các nhóm ngành.
Cụ thể, hỗ trợ tài chính này được gọi là trợ giảng hoặc nghiên cứu sau ĐH (Graduate Research/Teaching Assistantship), miễn phần lớn hoặc toàn bộ học phí và trợ cấp hàng tháng, thường là trong vòng 9 tháng của năm học.
Mức lương bậc thạc sĩ thường là 10.000-18.000 USD/năm và bậc tiến sĩ từ 18.000-35.000 USD/năm, tùy vào ngành và thành phố (mức sống) nơi ĐH tọa lạc.
Người viết thuyết trình tại một hội nghị. Ảnh: NVCC
Một số trường có thể yêu cầu sinh viên dạy hoặc hỗ trợ nghiên cứu vào mùa hè để nhận thêm lương. Theo quy định, trong mùa hè, du học sinh được phép làm việc hơn 20 giờ/tuần. Điều này giúp sinh viên quốc tế có thêm thu nhập.
Như vậy, mọi người thường hay gọi tắt đây là học bổng 100%, mặc dù không chính xác về bản chất. Việc hỗ trợ tài chính này được xem là có lợi cho đôi bên: nhà trường và sinh viên. Khi nhận hỗ trợ, sinh viên được xem là một nhân viên của trường, hưởng một số lợi ích và giảng dạy, tuy với mức lương thấp hơn so với giáo sư.
Thông thường, các trường công lập cung cấp các hỗ trợ tài chính này, cho phép sinh viên phụ giúp giáo sư trong việc giảng dạy, chẳng hạn như chấm điểm và điểm danh, hướng dẫn một buổi/lớp học hoặc giúp đỡ trong nghiên cứu (như tìm các tài liệu nghiên cứu trước). Các công việc được giao thường khá nhẹ và không ảnh hưởng đến việc học của bạn.
Nhiều giáo sư tôi từng làm việc cùng sẵn sàng để sinh viên lựa chọn mức độ công việc và ưu tiên các môn học và nghiên cứu của bạn. Vì vậy, bạn không cần phải lo lắng. Thay vào đó, bạn có cơ hội cực kỳ tốt để có kinh nghiệm giảng dạy và thực hiện nghiên cứu, cũng như làm việc và học hỏi từ các giáo sư am hiểu trong lĩnh vực của bạn.
Một ưu điểm của hỗ trợ tài chính này là hồ sơ du học không quá cạnh tranh một cách không cần thiết so với học bổng từ chính phủ, hay phải chứng minh các kỹ năng mềm như lãnh đạo. Hỗ trợ tài chính tập trung rất nhiều vào việc học, nghiên cứu, và kinh nghiệm làm việc (đối với ngành cần nhiều kỹ năng như báo chí - truyền thông) của sinh viên.
Các trường đồng thời cung cấp cho bạn những khoản tiền hào phóng, không chỉ cho việc học tập của bạn mà còn cho các chuyến đi hội nghị và thực hiện nghiên cứu. Chương trình tiến sĩ hiện tại của tôi hỗ trợ đến 1.500 USD/năm cho các hội nghị nghiên cứu khoa học và ba giải thưởng nghiên cứu từ 500-1.500 USD.
Sinh viên bên trong khuôn viên một ĐH ở Mỹ. Ảnh: REUTERS
Các tài liệu cần thiết cho hồ sơ cũng cơ bản và đơn giản, bao gồm sơ yếu lý lịch (hay CV/resume), bài luận cá nhân, 3 thư giới thiệu, bằng cấp tối thiểu (ví dụ: cử nhân), và chứng chỉ tiếng Anh (ví dụ: IELTS).
Nhiều trường học hoặc chuyên ngành sẽ hỏi bạn về kinh nghiệm làm việc và portfolio. Bài luận cá nhân thường từ 700-1.000 chữ, nêu rõ vì sao bạn chọn trường/ngành theo học, vì sao bạn phù hợp, và nguyện vọng trong tương lai.
Các chương trình tiến sĩ sẽ yêu cầu thêm phỏng vấn và đến tham quan trường. Một điểm cần lưu ý là một số ngành như ngành khoa học tự nhiên hay tâm lý học, khoa học chính trị, có thể không có bậc thạc sĩ mà sau khi tốt nghiệp cử nhân, sinh viên sẽ nộp đơn tiến sĩ 5-6 năm và nhận cả hai bằng sau khi tốt nghiệp.
Ứng viên cần chuẩn bị đầy đủ hồ sơ bao gồm sơ yếu lý lịch (hay CV/resume), bài luận cá nhân, 3 thư giới thiệu, bằng cấp tối thiểu (ví dụ: cử nhân), và chứng chỉ tiếng Anh (ví dụ: IELTS).
Với những sinh viên không thể theo lâu dài, sau 2-3 năm, nếu sinh viên đạt được mức yêu cầu cho bằng tiến sĩ, họ có thể dừng tại đó và nhận bằng thạc sĩ.
Bạn nên tìm kiếm để xem các tiêu chí và quy trình hồ sơ của trường, chọn chương trình dựa trên chương trình giảng dạy, hồ sơ giáo sư, trọng tâm nghiên cứu và mức hỗ trợ tài chính, số tín chỉ bạn được miễn cho các khoản phí và bảo hiểm y tế.
Nhiều trường như trường cũ của tôi (ĐH Bang Kansas), hỗ trợ 75% phí bảo hiểm y tế. Đây là con số rất đáng trân trọng so với mức chăm sóc sức khỏe đắt đỏ ở Mỹ. Việc chọn trường không nên phụ thuộc quá nhiều vào các bảng xếp hạng.
Vì vậy, hãy bắt đầu chuẩn bị hồ sơ và nộp trong tháng 12 này để đi học vào mùa thu tới!